Thứ Năm, 31 tháng 5, 2018

Phép luyện trùng

Lên thâm sơn cùng cốc, rừng thiêng nước độc, đợi vào đêm trăng tròn từ rằm khởi luyện liên tục cho tới 49 đêm, lấy ria mép của 1 con cọp để luyện, 
tìm 1 cái búp tre non, khoét 1 lỗ dưới đất vừa đủ để gắn cái râu cọp vào, sau đó cứ mỗi đêm ra chỗ đó cắm 9 cây nhang bằng trầm để luyện.
Đúng nữa đêm ngồi ngay ngắn đọc chú tập trung tư tưởng vào cái búp tre đó, liên tục khoảng 2 tháng, trong búp tre đó xuất hiện 1 con sâu lông độc. Mỗi ngày càng phát triển một lớn, trong cái lỗ gắn cái râu cọp. Khi nó bự lên do đọc thần chú mỗi ngày.
Khi luyện xong hoàn tất thì con này có mầu đỏ huyết hoặc mầu xanh lục đầy độc, sau này muốn sai khiến thì chỉ cần đọc chú triệu tới, người hiền dùng nó hút hết chất độc và chữa trị lành lại cho người khác, hoặc có người ác dùng nó để ếm kẻ thù sai khiến nó chích hoặc thư trùng độc vào nằm trong bụng kẻ thù, do thư ếm trúng phải chỉ có người chủ của nó hoặc các cao nhân mới có cách hóa giải.

Hình ảnh có liên quan

Thường thì ở các vùng sư miên, thái lan, người ta hay luyện phép này. Đó là phép luyện trùng mà mình biết.
Nắc mắc bà tá, ề hế ề hí, tha kháp tha kháp, sút kha sút kha cà bê sà nam bà ăn bà tắc, Thiên địa Ngũ hành, Năm non Bảy núi, Ngũ độc, bò cạp, rít độc, rắn độc, nhện độc, trùng độc, nghe lịnh Thầy Tổ đến đây phục lịnh, cấp cấp như luật linh. Mắc mắc Ngàn Khía Khía Ngẽn Nhai Ché Ché ,ngẽ e hé hé chẽ nga ché ché, cụt cụt cụt khía khía nghé, cụt cụt nghé khía ngẽ ché ché mắc mắc cà răng sây út út.

Thứ Ba, 6 tháng 2, 2018

Căn Bản Luyện Phép Lỗ Ban

Các hệ phái Lỗ Ban cho dù là chính tông hay là Lỗ ban Sát của Việt Nam thì đều có sự ảnh hưởng của Phật Giáo, các phái Tiên Gia khác như Mao Sơn, Côn Lôn, Thiên Sư, Long Hổ thì đều có cách tu luyện và câu chú thuần chất Tiên Đạo, ngay cả khi tác pháp của họ cũng vậy, lấy tha lực của Tiên Giới làm trợ giúp, còn Lỗ Ban thì có thêm bên Phật Giáo, như các Phù trị tà của Lỗ Ban Tiên Sư Trung Hoa thì có thêm các câu chú như Nam Mô A Di, hoặc vẽ tên của Phổ Am Đại Sư, thậm chí các bùa trấn yểm cũng có thêm các Mật Tự Phật Giáo, cách thức tu luyện Bùa của Lỗ Ban Việt Nam thì lại tương đôí giống Mật Tông, tuy nhiên Lỗ Ban có nguồn gốc Tiên Đạo nhưng lại ít chú trọng đến Thủ Ấn giống như các phái Tiên Gia khác.

Về căn bản người luyện Bùa Lỗ Ban thường luyện vào các giờ Tý – Ngọ - Mão – Dậu. 1 lá Bùa khi được thầy truyền cho họ sẽ tập luyện quán tưởng nó trong đầu như các cách trên, luyện khoảng từ 21 đến 108 ngày là có thể sử dụng được lá Bùa đó, các pháp sư cao tay thậm chí còn không cần vẽ Bùa ra giấy mà họ chỉ cần nghĩ đến Bùa là đã có thể tác pháp rồi, vì khi đó Bùa và cơ thể hòa vào là 1.
Nghi Thức Luyện Phép ( 1 dòng Lỗ Ban )
Thường luyện vào giờ Tý, Ngọ, Mão, Dậu. Người luyện phép cần tắm rửa sạch sẽ.
- Thắp 3 nén hương cầm ở tay, 2 tay chắp lại.
- Quán tưởng linh phù sau.
- Các linh phù này được gọi là Bùa Luyện Phép.
- Đọc chú Tịnh Pháp Giới Chân Ngôn. ( Ám Lam Xóa Ha ) 7 lần.
- Đọc Tịnh Tam Nghiệp Chân Ngôn 
Án ta phạ, bà phạ, thuật đà ta phạ, đạt ma ta phạ, bà phạ thuật độ hám. (3 lần)

- Đọc chú Niệm Hương
( Nam Mô A Di Đà Phật ) 3 lần.
Hách hách dương dương.
Nhật xuất đông phương.
Vạn sự thần pháp kiết tường.
Hộ thần đệ tử thủ chấp phần hương.
Họa linh phù tổ sư tiên sư chứng giám.
Án thiên linh linh.
Án địa linh linh.
Ngã linh thần phù lai ứng hiện.
Án thiên viên địa phương thập nhị công chương.
Thần phù đáo thử trừ tà ma, quỷ mị bất đáo vãng lai.
Trừ bệnh trừ tai ương
( Nam mô phật tổ Minh Dương Bồ Tát Ma Ha Tát ) 3 lần.

Bắt Ấn Hội Tổ : Bấm ngón tay cái vào ngón Tý của 2 lòng bàn tay,sau đó đưa lên bấm vào móng tay của ngón áp út,móc hai ngón trỏ và giữa vào nhau,ngón út dựng đứng.Đặt ấn Hội Tổ lên sát ngực và đọc. CHÚ HỘI TỔ như sau :

(Nam mô Phật Tổ Như lai chứng minh.
Đạt ma Tổ sư chứng minh.
Nam mô Tam giáo Đạo sư Tam Thập lục Tổ.
Tổ Xiêm,Tổ Lèo,Tổ Miên,Tổ Mọi.
Mình dưới Châu giang –Bà lai đàng Chà.
Mẹ sanh,mẹ Lục,ông Lục Phật Tổ,Cửu Thiên Huyền nữ,Lỗ Ban chơn tử, Hoàng Cơ tổ sư
Thập nhị Thời Thần.
12 vị Thần Bùa,Thập lục ông Tà bà Tà ,bà Lục.
Cảm ứng chứng minh cho Đệ tử là ..... –TUỔI .... đả thông Huệ Tâm,Huệ Nhãn,Huệ Nhĩ,Huệ Thiệt,Huệ Khẩu, đắc quả Linh phù cứu Thế trợ dân.

• Xả ấn hội tổ lên trên đầu để khỏi đánh trúng các vong linh vô tình đứng gần.
• Đọc xong xá 3 xá.
Không có văn bản thay thế tự động nào.

THỈNH TỔ LỖ BAN :
Nam mô vạn Pháp Lỗ Ban.
Nam mô Tiên sư Lỗ Ban.
Nam mô vần vận chuyển.
Nam mô thanh tịnh vận chuyển .
Chư Thần vãng lai trợ trì Đệ tử ... pháp danh...–Tuổi .... luyện phép cứu nhân độ Thế.
Sâm ăn băn khoăn –Ba ra rơ tá –Bơ rơ bơ rơ mặc mặc –Cẩn thỉnh Thần minh bảo trì cấp cấp như luật lệnh. ) –3 lần.

• Trong khi đọc Quán tưởng BÙA LỖ BAN như trên.
Ngũ Tổ Lỗ Ban.
Trong dòng Lỗ Ban Nam Tông có thêm Ngũ Tổ Lỗ Ban các vị này mỗi vị sẽ có 1 chữ Bùa riêng, các chữ bùa sẽ tương tự như bài vị của chư thần .
Ngũ Công Vương Phật Chú ( Ngũ Tổ Lỗ Ban )
- Cẩn thỉnh Đông Phương Thanh Đế Chí Công Vương Phật lai ứng giáng hạ độ linh thần phù.
- Cẩn thỉnh Tây Phương Bạch Đế Hoá Công Vương Phật lai ứng giáng hạ độ linh thần phù.
- Cẩn thỉnh Nam Phương Xích Đế Bửu Công Vương Phật lai ứng giáng hạ độ linh thần phù.
- Cẩn thỉnh Bắc Phương Hắc Đế Lãng Công Vương Phật lai ứng giáng hạ độ linh thần phù.
- Cẩn thỉnh Trung Ương Huỳnh Đế Đường Công Vương Phật lai ứng giáng hạ độ linh thần phù.
- Ông chỉ thiên, thiên thành phù.
- Ông chỉ địa, địa bình phù.
- Ông chỉ nhân, nhân trường sinh.
- Ông chỉ quỷ, quỷ diệt hình.
- Cấp cấp như luật lệnh.

**Chú này dùng để sên vào các loại bùa Lỗ Ban làm việc chính, các Bùa không có chú có thể sên chú này.

Thứ Hai, 5 tháng 2, 2018

1 đạo bùa Lỗ Ban

Có người tin rằng đọc niệm kinh Phật sẽ làm tăng sức mạnh Bùa chú của mình…mặc dù đọc kinh Phật bằng chữ Nho nên chẳng hiểu gì sất !?...Vả lại Phật cũng không hề kêu gọi đọc niệm loại bùa chú nào để làm cái chi !....Nhưng xét kỉ lại ta thấy là những người niệm kinh nầy thường giữ được nhiều hoặc ít các giới tuân thủ của nhà Phật cho cư sĩ tại gia như > không sát sanh-không nói dối-không trộm cắp-không tà dâm-không nghiện say…hình như chính những điều ấy đã góp phần làm bùa chú của họ linh thiêng chăng ?..Hay lí do cảm thấy linh thiêng ấy chỉ là xác suất tình cờ được lập đi lập lại ???

Yếu tố của sự hành pháp ấy xem ra chẳng phải đơn thuần chỉ dựa vào niềm tin …linh bất linh tại ngả…mà nó còn phụ thuộc vào sự công phu của hành giả …tức là sự tu và luyện…tu là tu bằng cái giới luật phật như nói trên …luyện là luyện cái ý trí của mình tập trung vào đề mục đối tượng nhất định nào đó …như 1 câu âm thanh vô nghĩa lập đi lập lại mãi…kèm theo 1 hình thể chữ  Nho (với bùa Lỗ Ban) hay hình kỷ hà học (với bùa 5 Ông ,bùa Xiêm, Miên…)…

Ngoài ra còn hệ thuộc vào tư thế ngồi hay đứng tuỳ môn …không phải chỉ dựa vào năng lực ý chí bản thân tự lực mà phải có phần tha lực …tức là đem đi hay trao đổi với bên ngoài bản thân mình….Ví dụ đơn giản nhất là trao đổi quang sắc …quang sắc đơn giản là của ánh sáng lửa đầu cây nhang …hay cao cấp hơn là quang sắc của mặt trăng hay mặt trời….hiếm hoi hơn là quang sắc của sấm chớp…ráng trời…cầu vòng…loại quang sắc đặc biệt là của lúc nhật thực…thật là hiếm có.

Số chu kỳ khổ luyện hay dựa vào hệ số ngày lẻ như 3-5-7-9-21-49-72-100…có người cho là hệ số nầy thuộc dương…..bây giờ tổng kết lại thì ta thấy người xưa luyện bùa chú không hẳn là mê tín -tự tưởng …mà chính là kết hợp lực tính âm dương vũ trụ vào cơ thể mình…tự biến mình thành 1 loại pin-ắc qui…để phát lực sản sinh ra theo ý muốn !

Có thể ngày xưa người ta không có phân tích lô gích lí thuật suông như trên…mà đơn giản chỉ là nghe-thích-muốn -luyện-làm….nhưng ngày nay trước khi mình nhập vào 1 học thuật kì bí nào đó …chí ít cũng cần xét qua tính chất để khỏi sa vào vòng ràng buộc thái quá của mê tín dị đoan ….

Xin giới thiệu về sưu tầm pháp thuật chữ DI…chử DI đây là chữ Nho viết trại đi theo lối tượng hình ẩn nghĩa kì bí ….được cho rằng ai khổ luyện nó sẽ có thể dùng nó để cầm máu …để trị sưng đau…trị mụt nhọt ….và cao hơn nữa là trị hay cấm kẻ xấu khác vào nhà hay vườn tược mình mà trộm cắp hay quấy phá thành quả lao động của mình .

Đầu tiên ta hãy quan sát kỉ hình chử DI được viết với thứ tự ra sao ?.. Điều nầy cũng giống như sự hình thành của 1 loại sự sống được bắt đầu và đến trưởng thành ra sao ….



Khi luyện ta cần quán tưởng các nét theo thứ tự như trên .
Khi quán tưởng ta cần niệm thần chú song hành với quán tưởng,tức là khi quán xong chữ phù cũng là niệm xong bài thần chú ,cứ như mà lập đi lập lại đến kết thúc buổi tập.

Thần chú khi tập và cũng để khi sử dụng.

Án niên cấm - nguyệt cấm - nhật cấm - thời cấm .
Án hoả nhiệt cấm - ung thư cấm - huyết ly cấm .
Ngô phụng hội đồng Lỗ Ban cấm.
Tí Sửu Dần Mẹo Thìn Tỵ Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi,
Giáp Ất - Bính Đinh - Mậu Kỷ - Canh Tân – Nhâm Quí.
Cấp cấp như nhật lệnh cấm.>>

Ngày khởi sự  >buổi tối lúc 11giờ >ngày trăng tròn.
Ngày kết thúc >buổi tập cuối kết thúc vào ngày trăng tròn kì sau …
Ví dụ tập ngày 1 âm lịch…kết thúc vào ngày 15 âm lịch..là 15 ngày tất cả.

Chổ tập-ngồi xếp bằng bất kể hướng  >bất kì …miễn là không để gì làm rộn trong khi tập.
Tập không gián đoạn hàng đêm..trước khi tập đốt 1 cây nhang để cắm trước mặt trên 1chén gạo…ngó ngay đầu cây nhang ấy mà tưởng phù-niệm chú .

(khi tập mãn ngày rồi giữ lại chén gạo ấy để trên cao mà thờ , thắp nhang buổi sáng -buổi chiều tối xin Tổ sư phù hộ cho phù linh hàng ngày.)

Lúc tưởng niệm như vậy hơi thở cần thật nhẹ và êm…tưởng chữ phù hiện ở đầu cây nhang …khi đủ nét rồi mình hớp hơi vào …tưởng như đem phù vào vùng rốn….tập cỡ 20 phút hay 30 phút là đủ trong 1 buổi tập.

Tiết lộ cho kẻ khác là mình đang tập có thể hư tất cả pháp tập của mình.

-----Kết thúc chu kì tập nầy có thể là 15 hay 21 ngày tuỳ ý …không phụ thuộc vào mùa trăng cũng được….người ta tin rằng bạn có thể dùng 3 cây nhang đốt lên hoạ bóng phù lên chỗ đau …sau đó thổi khói hương vào chỗ đau 3 lần….mụt nhọt hay chỗ sưng bầm hay chỗ bị dời ăn sẽ mau chóng khỏi bịnh…..nếu không có nhang thì dùng 3 lá trầu xếp lại đơn sơ như hình cái mũi dùi nhọn rồi lấy đầu nhọn đó mà vẽ bóng bùa lên chỗ đau…rồi cũng thổi 3 lần vào chỗ đau…..Nếu không có nhang hay trầu thì chỉ cần vẽ bùa tưởng tượng bằng đầu đầu lưỡi của mình nhằm vào chỗ đau…rồi cũng thổi 3 lần vào chỗ ấy .

Muốn cầm máu đương chảy thì niệm chú hoạ phù bằng lưỡi thổi thẳng vào chổ vết thương 3 lần …lại hoạ phù bằng lưỡi vào lòng bàn tay phải rồi áp lên vết thương ..nín thở niệm chú …từ từ giở tay lên …có thể làm liên tục vài lần cho máu bớt chảy lại rồi băng bó vết thương…..Dĩ nhiên nếu vết thương sâu quá hay làm đứt động - mạch bên trong thì phải cầm máu tạm thời rồi mau đưa nạn nhân đến chỗ y tế sơ cứu gần nhất kịp thời chữa trị ….Ở đây chúng ta chỉ đóng vai trò tạm lúc chưa có phương tiện y tế cấp cứu kịp thời cho nạn nhân.

Khi hành pháp trị cần có mặt trời hiện diện, tốt nhứt là không nên hành pháp từ lúc 3 giờ chiều trở đi …bịnh sẽ lâu khỏi vì thiếu Thái Dương hỗ trợ .


Bây giờ chúng ta nói về 1 pháp cao hơn pháp trên …

Pháp sau nầy không những trị được những chứng của pháp trên như cầm máu-trị ung nhọt-trị sưng đau-trị trặc gân-trị dời ăn-trị lở tay chân …..mà còn có thể Hộ thân cho mình và cho người….có thể cấm trị gian nhân vào nhà hay khu vực riêng tư của mình. Ngày xưa người ta dùng pháp nầy để những kẻ hái trộm hoa quả không thể vào hay là vào rồi không thể ra khỏi khu vườn…cứ quanh quẩn cho đến khi bị phát hiện mà thôi ….Lí do nào kẻ xấu không thể vào thì không thể hiểu được…nhưng 1 số kể lại là bị choáng ngất …bị thấy có người làm dữ….bị nóng lạnh hành …nghe có tiếng nạt làm sợ hãi……
Cách luyện:
- Cũng luyện cùng đạo phù trên…nhưng luyện buổi sáng với mặt trời nhú lên cỡ 15-20 phút …và buổi tối với mặt trăng…nếu không có trăng hãy nhằm vào vì sao nào sáng nhất mà luyện……cần khổ luyện với 49-72-hoặc 100 ngày liên tục sẻ thành tựu ….ta nên chọn mùa nắng để tập là tốt nhất ….luyện với đèn hay nhang thì ta ngồi xếp bằng….luyện với nhật nguyệt thì ta đứng thẳng người chấp 2 bàn tay khít lại để trước ngực như cầu nguyện.

Sử dụng-sau số ngày ấn định ta sẻ thành tựu với mức độ nào đó .

Hãy áp dụng như sau cho từng trường hợp …>>>.
Trị bịnh…..như phần trên đả nói.
Trị ma tà …..vẻ bùa bằng mực tàu pha Thần sa ,vẻ trên giấy màu vàng,nhẹ thì dán trước cửa vào nhà…nặng thì dán trong phòng lớn nhất của nhà ,và dán 4 lá trên 4 bức tường,lá nầy đối diện lá kia.

Hộ thân cho người…lấy 3 cây nhang đốt lên khoán trước ngực họ ,thổi 3 lần…rồi sau lưng củng làm y vậy….công dụng yếu thì trong 1 ngày…mạnh thì 3 ngày…đủ thời gian đi và về cần thiết .

Giữ  nhà ….dùng đầu ngón cái chân phải vẽ bùa trên mặt đất ở trước tất cả cửa đi vào nhà …công hiệu 24 giờ .

Giữ vườn…..dùng đầu ngón chân cái khoán ở cửa vào vuờn trước tiên….sau đó cũng làm vậy với 4 mé vào vườn của ta …chỗ giáp ranh giữ đất mình và bên ngoài đất ….công hiệu 3 ngày đêm.

Nếu khổ luyện đủ nhật -nguyệt thì có thể hành pháp bất kể ngày hay đêm bất kị ngày giờ.

Đi vào chổ có yếm đối hay đất có ma tà –hung Thần …trước khi vào nên dùng ngón chân cái vẻ bùa trên mặt đất …rồi đứng trên bùa độ 3 giây…sau đó hảy vào.

Hoá giải thư ếm hay bùa ngải khác hại người-nếu bị không quá 3 ngày-lúc giờ ngọ,từ 11g đến 1giờ trưa…đốt 3 nhang khoán bùa trước ngực người ấy 3 lần- lại dùng nhang ấy mà trở lại khoán bằng chân nhang 3 lần vào lưng- cuối cùng vẻ buà bằng ngón chân cái ,kêu họ bước vô đứng trên bùa ấy …khoán bùa vào 1tô nước lớn ,xối từ từ trên đỉnh đầu họ xuống chân ……nếu ăn uống mắc phải Đồ ếm sẻ ói ra hay đại tiện hay trung tiện ra ngay …là khỏi bịnh.

Người xài bùa nầy và kẻ nhờ bùa nầy phải cử ăn thịt trâu-chó- mèo-cá chép-cá không có vảy và luơn-ếch-cử ăn trái khế chua –không ăn con gà lông đen….và tuyệt đối không được chửi thề …uống say….sẻ bị lạc phép .

Phép nầy luyện không cần làm lể nhập môn hay hứa thề gì hết –không bao giờ bị ông ứng bà hành gì hết –không bao giờ bị vong hồn theo phá-không bị ma quỉ khuấy trong lúc ngủ mơ- ……chỉ cần ăn ngay ở thẳng,kính trọng cha mẹ ông bà và bậc trưởng thượng,khiêm nhường với anh em bậu bạn…..không hành hạ thú vật .

Còn nghe rằng bùa nầy dùng trong nhiều việc khác nửa mà không nghe cách dùng ra sao …có thể tuỳ theo kinh nghiệm của từng người áp dụng vào công việc.

phép nầy được 1 giáo dân công giáo lớn tuổi (hơn 60t) truyền lại , ông đả tập trên 30 năm ,và mổi năm vẩn tập lại 100 ngày….từng chửa trị cho rất nhiều người trong và ngoài đạo …đối tượng được chửa trị không cần theo 1 tôn giáo hay tín ngưởng nào …chỉ cần không chửi thề và ăn ở cho tốt với mọi người …..nếu bịnh lâu khỏi cần tự sám hối nhửng lổi lầm quá khứ của mình …bịnh sẻ mau chóng thuyên giảm .

Đó là những lời dặn dò cuối của người người truyền pháp vậy……

Thuật Phân Thân - Phân Thân Giải Ách Thuật

Thuật phân thân là phép thuật nhân ra  nhiều bản thể giống nhau y hệt với hình dáng của vật thể ( có thể là con người, đồ vật, con vật), thuật phân thân có thể giúp tránh thoát khỏi sự truy lùng của kẻ thù, nhưng lạm dụng khi gặp khó khăn sẽ không còn linh nữa.

Phàm hành giả muốn luyện thuật này phải chọn vị trí đắc địa trong 1 khu rừng ở trên núi mà ít người lui tới, có thể yên tĩnh tu luyện hàng ngày. Mỗi ngày vào giờ Thìn bắt đầu hành sự tu luyện.  Đi về phương Bắc, tìm 1 cái cây cao thẳng đứng vững chắc,  có kích thước cao tầm 19inch, lóc 1 miếng vỏ cây thành hình chữ nhật. 

《紫微中天》民间法术——“七步尘技”

Chuẩn bị 2 tờ giấy vàng để vẽ bùa, kích thước tờ giấy phải cùng kích thước với lớp vỏ cây hình chữ nhật được lấy ra và khớp với phần vỏ bị cắt ra trên thân cây. Đem 2 đạo bùa dán lên phần mặt trước và mặt sau của miếng vỏ cây hình chữ nhật. Đốt 1 đạo bùa thành tro.Định tâm vẽ đạo phù đầu tiên, tập trung quán tưởng vào hình tượng trên bùa đọc thần chú sau:

“Thái ất đế quân, tứ giới thống thần, truyền ngã tiên thuật, giải ách phân thân, siêu thế độ hóa, vạn vật tùy tâm, du du mộng mộng, hư huyễn thành chân”

Đọc thần chú và ý niệm nuốt thần chú vào bụng nuốt khí xuống đan điền 7 lần, nhả khí 7 lần lên bùa, sau đó đọc thần chú này 7 lần:

“Ngũ phương đại đế, thái thượng lão quân, nguyên thủy thiên tôn, ngọc thanh thái vũ, chỉ vật hóa thân, trừu khứ chân hình, đào khu hóa nan, dĩ bảo vi linh”

Cuối cùng, gõ răng 49 lần. Thực hành như vậy trong 49 ngày liên tục. Mỗi ngày là tìm luyện 1 cây khác nhau, không được trùng lặp. Y theo pháp như vậy là 49 ngày luyện 49 cây khác nhau.

Muốn sử dụng, vẽ 1 đạo bùa Hóa thân phù rồi dán lên đối tượng muốn phân thân, đọc thần chú 7 biến. Đối tượng sẽ phân thân và trở thành 1 hóa thân của chính nó. Thân thể hành giả cũng có thể phân thân và đi lại hoạt động y như bản thể chính.

Thuật đằng vân - Cưỡi mây đạp gió

Phép cưỡi mây , là một phép đi đến cảnh Tiên Giới , hành giả cần thành tâm tu luyện , mới có thể thành công .
Hành giả tu tập phép nầy cần chọn ngày Lập Thu ( Bắt đầu mùa Thu , vào ngày 7 hay 8 tháng 8 dương lịch tùy theo từng năm), giờ chánh ngọ ̣(Chánh Ngọ là đầu giờ Ngọ, tức là lúc 12 giờ trưa), ra cửa đi về hướng Bắc , tìm một bãi đất có trồng cây Cao Lương ,tìm chặt 49 cây , mổi cây có 7 đốt , dài 7 phân ; đem về nhà , đặt ở nơi mát , đầu cây đặt hướng về phía đông , đuôi cây đặt hướng về phía Tây , không cho ai thấy được nó .
Không có văn bản thay thế tự động nào.
trận đồ thất tinh bắc đẩu
Đợi đến giờ Tý nửa đêm ( Giờ Tý tức là từ 0 giờ đến 2 giờ khuya. ) , đem 49 cây chia thành 7 nhóm , mỗi nhóm 7 cây , cắm đầu cây hướng xuống đất , đuôi cây đặt hướng lên trời , mỗi nhóm sắp bày thành hình chòm sao bắc đẩu , sau đó bảy nhóm cây sao Bắc Đẩu nhỏ này , lại sắp thành hình chòm sao Bắc Đẩu lớn , mà cán đuôi sao Bắc Đẩu lớn này hướng về phương Bắc , mỗi cây cách nhau 7 phân , các nhóm cây sao Bắc Đẩu của mỗi nhóm cách xa nhau 49 phân ( như hình 1)
Khi cắm mỗi cây xuống đất , hành giả liền mặc niệm chú ngữ :
"Kiền nguyên bắc đẩu , thái thượng thần huy , bố vân phúc khí , vạn tà bất thôi , siêu ngã thành tiên , độ ngã kim thân , thất thất tu luyện , đạp vân thăng thiên"
Niệm một hơi ba lần câu chú trên .
Ngày hôm sau , chuẩn bị một cái bàn bát Tiên
Trên bàn để Chu Sa , Bút Mực Tàu , giấy vàng ...đến nửa đêm giờ Tý , hành giả đứng giửa chòm Sao Bắc Đẩu lớn , mặt hướng về phương Bắc , miệng niệm câu chú trên 49 lần và vẽ một đạo bùa Huyền Không Phù ( hình 2)

Không có văn bản thay thế tự động nào.
Huyền không phù
Xong hít khí của sao bắc đẩu ( Tức mặt hướng về hướng phía sao Bắc Đẩu trên trời , miệng hít một hơi dài ) thổi vào chữ bùa trên , đem lá bùa nầy dán lên đốt giữa của cây cắm trước nhất , xong nhổ lên cây nầy lên và đem đặt dựng đứng lên cây cắm cuối cùng nhất , tức đầu cây cắm lúc đầu đem đặt dựng đứng trên đuôi cây cắm chót nhất , hai cây nầy dựng đứng , cây trên không được ngã rớt xuống , sau đó vẽ thêm hai đạo bùa Phi Vân Phù ( hình 3)
Không có văn bản thay thế tự động nào.
Phi vân phù
Lại lấy khí Bắc Đẩu thổi vào , xong dán vào mỗi gan hai bàn chân phải và trái , mổi bàn chân một đạo bùa nầy và mặc niệm trong tâm ( Tức tưởng tượng trong đầu) , ở dưới hai chân mình có một đám mây màu xanh da trời nâng hai chân lên , đồng thời tưởng tượng mình nương vịn vào cây Cao Lương dựng khi nảy để mà năng mình lên cao ....

Cứ theo cách trên mà tu tập , mỗi ngày theo thứ tự , tuần tự lấy cây thứ hai , dựng lên cây thứ nhất .......cứ thế mà dựng cao lên mỗi ngày thêm một cây , theo phương pháp như trên ; sau 49 ngày , tức các cây sẽ được dựng thẳng đứng lên như một cái thang dài , hành giả có thể vịn cây thang nầy mà lên tới đỉnh cao , rồi từ đó mà tự nhiên cơ thể hành giả sẽ có thể bay bổng lên , như thể cưỡi mây mà bay lên trời vậy .
Hành giả không được cho ai thấy biết , trong lúc mình tu tập ; đặc biệt là đàn bà con gái có thai càng kỵ lai vãng gần nơi người tập ....Nếu không phép nầy sẽ bị phá ngay.....
*** Đôi điều nhận xét về thuật đằng vân:
Nếu là người đã từng có sở đắc cao về huyền học và khoa học Đông Tây , thì sẽ nhận ra đây là bí thuật cổ nhân đã khổ công suy nghĩ và tìm ra được sự giao tiếp , cảm ứng với tính phản từ lực của khoa học tâm sinh lý trong tâm thân con người và trường lực cùng phản trường lực của vạn vật với địa từ trái đất ......
Từ các việc như : vào ngày mùa Thu , Giờ chánh Ngọ , đi về hướng Bắc , chọn Cây Cao Lương , Giờ Tý , 49 cây , mổi cây 7 đốt , 7 phân , sắp cây theo hình chòm sao Bắc Đẩu ..........
Thì có thể những chi tiết này ứng dụng vào những ngày giờ nầy và phương hướng Bắc từ trường trái đất tác dụng nạp từ trường mạnh vào các vật dụng và tâm thân con người cho thích hợp cho việc luyện thuật đằng vân khinh thân ....
Tại sao cổ nhân không tìm cây nào khác , mà phải dùng thân cây Cao Lương mà luyện phép Đằng Vân Kinh Không nầy , thì có lẽ cây Cao Lương vào ngày giờ đó , ở hướng đó , có thể hấp thụ từ trường mạnh và khi cắm cây xuống đất , đầu cây Cao Lương cắm xuống đấ̀t , đuôi cây hướng lên trời , tức làm đảo ngược từ trường của cây và địa từ , vì thế khi dựng cây này lên cây kia nó sẽ có tác dụng như thanh nam châm có cực nam và bắc , do đó từ trường của hai cây khác từ tính thì cây sẽ hít vào nhau , để cây có thể dựng thẳng đứng lên mà không bị ngã xuống , nên 49 ngày sau , hành giả sẽ có một cái cây thang dài do 49 cây Cao Lương dựng thành ....
Việc vẽ bùa Huyền Không Phù dán vào đốt giữa mỗi cây Cao Lương , là hành giả dùng Tâm lực của mình , để hấp thu lấy một số trường lực không gian , một công thức trường lực thích hợp và nạp năng lượng nầy , vào cây Cao lương để phối hợp và làm tăng cường từ trường của Cây nầy vậy ....
Việc vẽ bùa Phi Vân Phù dán vào gan hai bàn chân của hành giả cũng cùng một nguyên lý trên , cộng thêm sự đọc chú để tâm hành giả được chuyên nhất , không có tạp niệm , hầu đi vào đại định , sau khi đi vào đại định, hành giả chuyển sang quán định để quán tưởng , như dưới chân có đám mây xanh ,
đồng thời nương vịn vào cây cao lương mà nâng mình lên cao , việc làm này có hai tác dụng , khi tâm con người đã vào đại định và chuyển sang quán định , thì các phản ứng hoá học nội tiết trong cơ thể , sẽ có tác dụng làm thống nhất các cực trường lực nam châm sinh điện từ của các tế bào cơ thể̃ , thống nhất thành một hệ thống trường lực mạnh ,
có hai cực âm dương sinh điện từ phân định trong cơ thể và sẽ gây phản cực với địa từ trái đất , cộng thêm sự tiếp lực của cây thang thực điện từ của cây Cao Lương , qua hai trợ lực trên , sau một thời gian tập hành giả có thể nhờ sự kiên trì với tâm thành khẩn cùng sự cải cách , bổ sung ,thay thế , loại bỏ các yếu tố thất bại , tăng cường tích cực các yếu tố thành công trong sau các buổi tập , nhờ vào tự và tha lực ..... thì một ngày nào đó , sự thành công sẽ đến với hành giả là điều tất nhiên vậy ...
Còn trong lúc tập , cấm không cho ai thấy , là tránh hành giả bị phân tâm , bị người ngoài dị nghị quấy phá , can thiệp làm gián đoạn việc tu tập của hành giả khiến chân khí không phát khởi để làm từ trường sinh học cơ thể mạnh lên được , mà còn suy yếu thêm .....cấm đàn bà có thai lãng vãng gần nơi tập , vì đàn bà có thai thuộc từ trường cực âm , trong bụng đang chuẩn bị hấp thụ từ trường thông tin thích hợp nạp vào thai nhi để hình thành một sinh mạng mới ...do đó sẽ làm dao động và hút mất dương khí từ trường sinh học cực dương của người đang tu tập .....
Một điều cần chú ý , hành giả trước khi tập , cần cầu nguyện vị hộ pháp trong tín ngưỡng của mình bảo vệ trong khi tập , và chỉ cộng tác với những trường lực thông tin nào của vũ trụ linh giới giúp hành giả thành công trong việc tập mà thôi ...sau khi tập xong cần hồi hướng công đức và tiễn Thần... về nơi cũ .....
Nếu sau một thời gian tập , dù thành công hay thất bại , hành giả cũng không nên vui mừng hay buồn phiền gì cả , mà luôn giữ tâm bình thường , làm tròn bổn phận của mình đối với gia đình và xã hội, giữ tâm luôn an lạc tỉnh thức và vui vẻ trong sinh hoạt , đúng theo qui củ và giữ đúng luật pháp , trật tự của xã hội hằng ngày mà mình đang sống là điều cần thiết nhất ....
Việc gia đình là quan trọng làm trước , hiếu trên , nhường dưới , trung , hiếu , lề̉ , nghĩa , trung dung tích cực , là điều nên giữ vững .....còn việc tu tập huyền thuật là học thêm thôi .... Được như thế , là ta đã ung dung ngao du hai cảnh trời người rồi đó .....

Nhục thể thành tiên thuật : (Thuật cải lão hoàn đồng trường sinh bất lão)

Nhục thể thành tiên thuật là bí pháp thượng thừa của tiên gia. Tu nó 49 ngày có thể kéo dài sinh mệnh 100 tuổi. 2 lần 49 ngày thì cải lão hòan đồng, 3 lần 49 ngày thì trường sinh bất lão. đến 4 lần 49 ngày thì thăng nhập thiên đình. 

Tu thuật này trước cần lắng thất tình lục dục, ác niệm không sinh. Lấy đèn 36 chén , bày phương vị bát quái, dương quái 1 chén, âm quái 2 chén, giữa đặt âm dương ngư (thái cực đồ). 

Sau khi đặt xong, ngồi trong âm dương ngư, mặt hướng chấn phương, dừng vạn niệm, ý tưởng tinh hoa linh khí thiên địa vận vật hóa thành thất sắc trường long (rồng dài), từ thất khiếu mà nhập vào thân, 1 lần tụ ở nê hòan sau đó nuốt vào hòang đình. Làm như vậy 49 lần rồi niệm chú 7 biến:
 "kim đan nhất lạp , vĩnh bảo trường sinh, ngọc hòang thượng đế, phong ngã vi khanh"
[转载]《七步尘技》

Đọc chú xong, gõ răng 49 lần thông rồi lấy thất sa ghi 1 đạo quy tiên phù rồi uống. Tu luyện lâu ngày sẽ thành chánh quả. 

Phụ thêm pháp dùng thất sa: lấy thất sa bỏ trong nghiên cho vào trong nước suối rồi lấy 1 cành non của cây bạch du (1 loại cỏ) nghiền ra, đợi đặc lại là có thể dùng, thất sa càng đỏ càng tốt

Hồn du địa phủ thuật

Thuật hồn du địa phủ tu 49 ngày trước có thể triều kiến lục phán còn có thể tra xét sinh tử thọ mạng của thế nhân. Tu thuật này thường có quỷ để sai khiến nhưng chớ có sợ hãi vì quỷ không có ác ý. Chỉ có nhu quỷ mới thật tu được. Có thể sai khiến quỷ sai nhưng đừng đùa với quỷ vì sẽ bị chúng trừng trị nghiêm khắc. 

Tu thuật này cần trên dưới 7 năm. Cần dùng cổ tùng trên 7 năm chế 1 cái áo quan dày 49 phân, dài 7 xích. Mỗi ngày vào nửa đêm nằm thẳng, đầu hướng đông chân hướng tây trong áo quan, ý tưởng chân hồn của mình có thể thoát ra khỏi thân đi du nơi địa phủ. 

Kết quả hình ảnh cho 第六 魂游地府术

Dùng thất sa vẽ 1 đạo âm phù rồi uống. Rồi gõ răng 7 lần, đánh trống 7 lần rồi đọc chú như sau:

“ lục phủ thần linh, quản hạt thương sinh , ngô kim đắc trợ hồn vãng triều khanh , giải thế thiện ác dĩ phụng kỳ công , khiển phái quỷ sai , bồi ngô đồng hành".

Đọc chú 7 biến suốt 49 ngày và niệm chú. Nếu sợ thì gọi 2 quỷ sai đến trước buổi tối rồi đi theo chúng đi 7 ngày rồi về.

Sau khi chân hồn đi rồi nhục thể như xác chết. Nếu bị người phá thì sẽ thành du dạ quỷ (quỷ đi chơi rong buổi tối). Thật là đáng sợ! đáng sợ.

Pháp đánh trống trời là dùng 2 lòng bàn tay bịt tai lại. sau khi 10 ngón ôm đầu lấy ngón thực đè lên ngón trung. Dùng 2 ngón trung nhẹ gỏ đả thông hậu não, tai nghe tiếng lành lạnh.

Phép Độn Thổ - Độn Địa Phi Hành Thuật

Hình ảnh có liên quan

Phép Độn Thổ , sau khi hành giả tập luyện thành công , trong nháy mắt , có thể độn thổ đi xa ngàn dặm . Mỗi khi đến bốn ngày Thìn - Mậu -Sửu –Mùi  thì tu luyện , trong vòng 49 ngày , thì sẽ tự linh thông ứng nghiệm .
Khi tu phép nầy , cần lấy bốn loại đất Thìn - Mậu -Sửu –Mùi ( Đất Thìn khô ráo , có tính Dương : Đi về hướng đông nam , cận đông 120 độ , tìm một ít đất khô ráo . Đất Mậu có tính dương : Đi về hướng tây bắc , cận tây 300 độ , tìm một ít đất có độ khô ráo . Đất Sửu có tính âm : Đi về hướng đông bắc , cận bắc 30 độ , tìm một ít đất ẩm ướt . Đất Mùi có tính âm : Đi về hướng tây nam , cận nam 210 độ, tìm một ít đất ẩm ướt ; ( Theo kinh Dịch , Đất Thìn –Mậu khô ráo có tính dương;Đất Sửu – Mùi ẩm ướt có tính âm ) , xong bỏ vào một cái thố bằng ngọc , và đặt lên bàn thờ ….

Đến giờ Sửu (1-3 giờ sáng ), mặt hướng về phía đông bắc , quỳ trước bàn thờ , bình tâm tịnh khí , trong tâm tưởng tượng 10 vị thổ địa của 10 phương về tề tụ lại trước mặt mình , xong hành giả cúi đầu lạy 49 lần , mổi lần lạy , hít một hơi dài và thở từ từ ra , trong lúc thở ra miệng niệm , một lần chú cho mỗi lần lạy như sau :
Địa Hạ Nguyên Quân – Huy Thống Lục Phủ – Huỳnh Đình Chính Khí – Vãng Hạ Du Ư - Tinh Hoa Vạn Trượng – Ẩn Uất Bạch Hổ – Tu Đắc Địa Hành – Triều Kiến Quân Chủ .

Hình ảnh có liên quan
Sau đó , hành giả đứng dậy , trong miệng cắn gỏ răng 49 lần , xong tay mặt cầm bút long , trong tâm tưởng tượng bút long là hóa thân của Thanh Long , xong chấm mực Chu Sa vẽ một đạo Địa Phù trên tờ giấy vàng ,trong khi vẽ bùa miệng đọc câu chú sau :
Địa Phóng Linh Quang , Phổ Chiếu Thượng Tang – Dưỡng Dục Vạn Vật – Tạo Phúc Bát Phương – Phù Ngã Âm Khí – Khả Thông Phủ Vương – Tử Thanh Đại Đế – Trợ Ngã Hạ Đường .

Xong lấy đạo bùa Địa Phù dùng lửa xanh lá cây đốt cháy thành tro , xong pha tro với hoàng tửu mà uống vào bụng , ý tưởng tượng dưới chân xuất hiện một cánh cửa đang mở ra , vừa thân mình chui xuống đất , hành giả liền chui xuống , như thế sẽ bắt đầu độn thổ tùy ý , mà đi đến nơi mình muốn tới ....
Tập xong như thế trong vòng 49 ngày , khi muốn độn thổ , thì hành giả chỉ cần vẽ đạo Địa Phù để xuống đất , xong miệng hít một hơi âm khí thổi xuống đạo bùa dưới đất , và miệng hét to lên một tiếng , thì dưới đất sẽ mở cửa , hành giả sẽ đi xuống cửa đó mà độn thổ , khi muốn đi ra , thì lúc đó là hành giả đã đến nơi mà mình muốn đến rồi đó ......
Điều cấm kỵ khi tập phép nầy hành giả không được thấy ánh sáng có cường độ chiếu sáng mạnh và kỵ thấy chín đồ vật thuần dương ( Cửu Dương Chi Vật ) , nếu không phép độn thổ sẽ không linh nghiệm .
Phép Độn Địa Phi Hành Thuật do người xưa dùng tinh hoa của kinh Dịch , Âm Dương Ngũ Hành , Kỳ Môn Độn Giáp , Tử Vi Đẩu Số , PhongThủy , Đông Y , Dưỡng Sinh Tu Tiên và Phương Thuật của Đạo Gia ....để hình thành một phép Độn Thổ nầy ....
Qua các giai đoạn chọn ngày giờ , phương hướng , vật liệu , pháp khí , bùa chú , quán tưởng v..v....đã cho ta thấy , thông qua các yêu cầu trên , hành giả với lòng thành khẩn , và tâm thể thống nhất , sau một thời gian thực tập , hành giả sẽ đạt đến một định lực , quán lực và chú lực ở một mức độ cao.....Khi hỏa hầu công lực đã thuần thành , đến một giai đoạn nào đó , thông qua các trình tự trên hành giả có thể mượn tiến trình nầy để phóng phát tâm năng và thần trí của mình ra khỏi cơ thể mà đi đến nơi mình muốn đến .....đương nhiên đây là một dạng xuất âm thần
Còn dạng xuất Dương Thần  thì hành giả cần phải thông qua thời gian dài để tích tụ nguyên khí , hầu tạo cho mình một pháp thân hay đệ nhị xác thân bằng năng lượng thuần dương để có thể làm một dẫn thể cho thần thức nương vào đó mà hiện ra như xác thân vật chất thật ở một nơi khác , trong khi xác thân vật chất thật sự của mình đang chìm trong đại định tại một mật thất tư gia riêng của mình vậy ......
Vài điểm cần lưu ý : 
1.- Là khi đạt được quán lực cao , thì hành giả cần có năng lực kiểm soát linh ảnh ẩn hiện theo ý muốn của mình , chứ không phải bị linh ảnh chi phối và kiểm soát lại mình ...
2.- Lòng mong muốn cao độ để đi đến một địa điểm nào đó , nhờ vậy sẽ hình thành xung động lực có thể xuất âm thần ....
3.- Khi đi đến một địa điểm nào đó , hay lại nơi người quen , hành giả cần xác nhận lại thông tin với người phụ tá hoặc bạn bè xem có đúng với lúc hành giả xuất thần đi hay không .... 
4.- Nếu thông tin không chính xác thì không hoang mang chán nản...mà cần kiểm thảo lại và loại bỏ những yếu tố dư thừa hay không hữu hiệu ..........
5.- Khi xuất âm thần đi đến đâu hay trông thấy những điều tiên tri hay kỳ lạ , thì hành giả cần giữ một tâm trạng an lạc , tâm không nắm bắt , không vọng động mong cầu , mà cần an nhiên nhi nhiên , thấy quái không quái ,thì sự quái dị sẽ tan biến đi , nếu tâm vọng động mong cầu nắm bắt sẽ bị tẩu hỏa nhập ma.
6.- Mọi huyền năng sở đắc đều phải thực tế , chính xác , hữu dụng , nằm trong vòng kiểm soát của mình ....ngược lại , hành giả vẩn còn trong giai đoạn sơ cơ hoặc bước đầu trung cấp , cần chuyên cần tu tập thêm và chỉnh sửa tâm thân nhiều hơn nữa ....
7.- Hành giả lúc nà̉o cũng trụ vào cuộc sống thực tế hằng ngày sau khi tập luyện , không được mang các ảo giác hay linh tưởng trong lúc tập vào cuộc sống , nếu không sẽ bị người khác cho là mất bình thường hay bệnh thần kinh ......
8.- Tu Tập trong vòng im lặng , thành công trong sự kiên trì và lòng thành , bí mật sử dụng quyền năng sở đắc một cách thích hợp , đúng lúc và đúng thời theo quy luật âm dương ngũ hành ....
Việc mang cơ thể vật chất thật sự để chui qua cửa địa môn ở dưới đất , xưa nay đã được sử dụng trong các chiến trận, các hành động ngụy trang thoát hiểm của nhẫn giả Ninja và các sát thủ cổ xưa , đó là các địa đạo thông hào đã được đào sẵn và đã được ngụy trang từ trước , gặp khi cấp thiết , người ta có thể độn thổ biến mất ngay sau một nháy mắt , làm đối thủ kinh ngạt hoang mang , như sự biến hoá tàng hình vô hình của ma quỷ Thần Thánh vậy ....


Pháp Thuật Cắt Giấy Thành Binh - Tiễn Chỉ Thành Binh Thuật

Pháp Thuật Cắt Giấy Thành Binh nầy , khi tu luyện thành công , người giấy có thể hóa ra binh lính , binh sĩ , họ không cần ăn uống , khi ra trận mạc dao mác đâm chém không bị thương ...., hành giả có thể huy động đạo binh lính nầy , tiến thóai , xung sát trong trận địa một cách tùy ý .
Ngày xưa Ông Tào Công , đã dùng thuật nầy để phá tan vài chục vạn quân Kim , đó là một sự thật vô cùng vi diệu của thuật nầy .
Đầu tiên , hành giả cần chuẩn bị :
- Một căn phòng yên tịnh .
- Một cái bàn nhỏ đặt ở hướng Đông , trên có bút lông , giấy vàng mỏng để viết bùa , mực Tàu và Chu Sa .
- Một xấp giấy gồm có bảy tờ giấy bảy màu .
- Một hòn đá xanh , dài 49 tấc ( Mười phân là một tấc. ) , rộng 7 tấc , dầy 49 phân.

Đợi đến giờ Tý nửa đêm , lấy xấp giấy màu để theo thứ tự từ trên xuống dưới trắng , vàng , cam , đỏ , lam , tím , đen ....sắp thành một xấp , xong dùng kéo cắt sắp giấy nầy thành hình 49 người giấy , mổi người giấy cao 7 phân , khi cắt mổi người giấy đều phải làm như sau :
Hít một hơi dài xong thổi lên tờ giấy sẽ cắt , trong lúc cắt giấy miệng niệm chú :
Hư Hư Linh Linh , Thái Thượng Ngọc Thanh , Phù Nguy Tế Khốn , Tiễn Chỉ Thành Binh, Tam Hồn Quy Tả , Thất Phách Quy Hữu , Tốc Tốc Khởi Thân , Tuân Ngã Luật Lệnh .

Không có văn bản thay thế tự động nào.Không có văn bản thay thế tự động nào.
Khi cắt xong 49 người giấy , đem hòn đá xanh để úp lên trên 49 người giấy nầy , không để hình người giấy lộ ra ngoài ; xong lấy bút lông chấm chu sa vẽ một đạo Trấn Quỷ Linh Phù , đặt trùm lên hòn đá xanh ...... , về sau mổi lần tu luyện , lấy một người giấy ở đầu phần trên sắp giấy ra , vẻ một đạo bùa Chiêu Hồn Tựu Phách , rồi đốt lên , niệm chú bảy lần , xong đem người giấy vừa luyện xong đặt trở lại dưới hòn đá xanh phía dưới sắp giấy , lần tu luyện sau , hành giả lấy người giấy mới kế , ở phía trên sắp giấy ra , không được lấy lộn người giấy đã được luyện xong ngày trước để phía dưới sắp giấy và những người giấy đả luyện xong , không được lặp lại ; tu luyện như thế cho đến 49 ngày sau , 49 người giấy đã lần lượt được luyện xong , thì hồn phách của 49 người giấy đã hội đủ chân khí và hồn phách của chúng có thể tựu hình ; khi hành giả cần dùng , thì lấy người giấy đã được luyện xong nằm ở dưới hòn đá xanh ra , hành giả hít một hơi dài và thổi vào người giấy nầy , xong miệng lâm râm đọc chú :
Thái Vi Đại Đế , Đan Phòng Thủ Linh , Tuyển Tựu Binh Giáp , Khu Tà Phụ Chánh , Dương Hòa Bố Thể , Lai Phục Hoàng Đình , Thiên Phù Đế Lực , Chấn Nhiếp Đao Binh .
Khi hành giả đọc xong thì người giấy sẽ hiện thành binh lính , có thể tùy ý sai khiến .
Hành giả nếu tu luyện chưa hết 49 ngày , thì không thể khống chế được người giấy , nhất là đạo linh phù Trấn Quỷ , một khi bị sơ hở hay bất cẩn vì một lý do nào đó hoặc linh phù nầy , bị tróc , rớt sứt ra hay bị gở ra khỏi hòn đá xanh , thì người giấy sẽ trở nên khó trị , và sẽ đi phá phách gây nguy hại khắp nơi , tội lổi vô cùng , vì đạo bùa dán lên hòn đá xanh để trấn 49 hình nhân phía dưới giống như , những đạo bùa dán lên trán của cương thi để trấn và điều khiển cương thi của pháp sư Mao Sơn vậy ....
Khi tu luyện phép nầy , nếu để người nào được , thì phép sẽ luyện không thành .
Do đó , hành giả hãy cẩn thận ghi nhớ lấy những điều căn dặn nêu trên .

Chủ Nhật, 4 tháng 2, 2018

Bí thuật tìm người bằng ếch xanh

Cách làm:

Dán 2 mặt giấy trắng và xanh lại với nhau, 2 mặt giấy vàng và xanh lại với nhau rồi gấp thành con ếch sao cho mặt giấy màu xanh lộn ra ngoài thấy con ếch màu xanh.

Kết quả hình ảnh cho ếch xanh

Dùng giấy trắng xanh làm thành ba con ếch xanh, lại dùng giấy vàng xanh làm thành bốn con ếch xanh. Hàng ngày vào lúc 11 giờ đêm đến khi cách trời sáng một canh giờ làm phép. Chuẩn bị 1 cái bàn nhỏ, ba que hương, lư hương, ba chén nước trắng, một số ô mai, hoa quả cũng được, lại chuẩn bị một cành trúc nhỏ cùng một ít gạo, một tấm vải trắng, lấy gạo buộc túm lại treo lên cành trúc, trước tiên thỉnh niệm: 

Bái thỉnh chư thiên không trung quá vãng thần kì, đệ tử…kim vãn hữu sự bẩm cáo, thỉnh cầu chư thiên không trung quá vãng thần kì giáng lâm. Kim đệ tử tố pháp dĩ nhất chỉ thanh oa điều…nhân hồi lai…đảo ngã hội tiền, kim bất tri đào khứ hà xứ, phiền thỉnh chư thiên không trung quá vãng thần kì hiện thân tác chứng, tốc tốc điều kỳ tam hồn thất phách hồi lai. 

Niệm xong chú này lại cầm con ếch xanh ở trên lưng ghi tuổi cùng họ tên, phía trước ghi địa chỉ nơi ở sau đó lấy một cái kim (kim may áo cũng có thể được) cắm ở giữa lưng con ếch, sau đó đem con ếch xanh cầm vào trong phòng chỗ không có người nhìn thấy, chính diện đặt xong rồi (lưng hướng lên trên, không phải bụng hướng lên trên), lại quay trở về lấy cành trúc (buộc gạo lên rồi) nhẹ nhàng đưa qua đưa lại (đưa thành hình tròn), trong miệng niệm: 

Mỗ mỗ nhân tam hồn thất phách khuai lai a, mỗ mỗ nhân cản khuái lai a (không giới hạn bao nhiêu lần)

Sau đó đặt dưới cành trúc, khép tay lạy ba lạy, cầm một số vàng thọ ra ngoài đầu hoặc trong sân hóa, làm như thế liên tiếp 7 ngày. Ngày thứ nhất ếch trắng xanh, ngày thứ hai ếch vàng xanh, ngày thứ ba ếch trắng xanh. Hàng ngày làm phép nhất định phải thỉnh thần, phép này đã từng có người làm qua, rất hiệu nghiệm, tôi chưa từng sử dụng qua phép này, các bạn độc giả nếu như có bị hãy thử một lần (sau khi người về thì nhổ cái kim trên lưng ra, thả ếch ra nước cuốn đi).

Nếu như có người đi mất, hoặc không nhìn thấy nữa thì lấy quần áo bọc thành một khối, dùng cành trúc buộc lên đặt ở trong giếng cổ, trong vòng ba đến năm ngày người ấy nhất định sẽ quay về.

Cách luyện bùa chú Mao Sơn linh nghiệm

Dùng bùa chú Mao Sơn muốn đạt được linh nghiệm thì cần phải lấy thái độ thành tín làm đầu. Trong kinh có câu rằng: “thần không chỗ nào không ở, không chỗ nào không nhìn thấy, phép không chỗ nào không linh nghiệm, tâm thành kính thì có thể đạt được”, tức là chỉ điều đó vậy. Người cầu thuật nếu như có thái độ cầu thuật bán tín bán nghi, đối với việc thi hành cảm ứng cầu thuật sẽ có những ảnh hưởng không tốt, vì thế cho nên người triển khai cầu thuật trước tiên phải lập cái tâm thành kính, không có thể coi thường. Vậy thì lập cái tâm thành kính của người cầu thuật như thế nào vậy ? 
 Kết quả hình ảnh cho đạo sĩ mao sơn
1. Sự tu dưỡng của bản thân thuật sĩ: 
Việc tu dưỡng của người thuật sĩ bao gồm thân (nhục thể), tâm (tinh thần), cho đến tu dưỡng đức tính. Có một số người sinh ra đã có phong thái Tiên phong đạo cốt, dáng vẻ và tinh thần của họ có linh lực cảm ứng, khiến cho người cầu thuật một lần nhìn thấy đã có thể bị chấn động. Nhưng cũng có một số người linh dị khác thường được trời ban cho thiên phú, đó là cái may mắn của một thuật sĩ xuất sắc, cũng có thể là do khiêm tốn tu dưỡng mà đạt được, tức là phải đồng thời tiến hành tu dưỡng thân và tâm cùng một lúc, chốc chốc lại ngồi tĩnh tu thở ra, hít vào, khiến cho thần thể khí phách tráng kiện, thanh âm vang trong, khí lực tràn trề. Thử nghĩ nếu như một người tinh thần mệt mỏi, hơi thở yếu đuối, đối với sự việc mà không có năng lực quyết đoán, gan nhỏ như chuột, sợ đầu sợ đuôi, như thế sao có thể thiết lập uy tín với người khác. Như thế sao có thể vẽ ra một tấm bùa linh nghiệm.  
Thuật sĩ ngoài việc tu dưỡng thân tâm, thì đối với việc xây dựng đức tính cũng cực kỳ quan trọng. Thuật sĩ hàng ngày cần phải lưu ý phong thái của mình, tránh xa tửu sắc, tiền tài, cần tạo dựng phong thái tự nhiên, lấy lễ đãi người, ôn hòa mà lại ẩn chứa sự nghiêm túc. Trang phục hàng ngày cũng cần lưu ý, trong một thời gian phải tuân thủ chặt trẽ, tức phải siêu nhiên thoát tục. 
Muốn khiến cho người cầu thuật kính sợ, ngoài việc có một bí quyết, thì khi làm phép cũng cần phải tiến hành thuật thôi miên khiến cho người cầu thuật trong lúc vô ý chịu sự khống chế của tiềm thức, mà xây dựng nên lòng thành tín. 
2. Cách bố trí đạo đàn: 
Đàn làm phép không nhất thiết phải ở nơi rộng rãi, nếu như ở nơi hạn hẹp thì giản tiện, không ắt phải đầy đủ rộng rãi, cốt ở tấm lòng của người cầu thuật. Cho nên phàm là lập đàn tế thế cần phải bố trí một đạo đàn mang phong thái thời cổ, ở trong phòng ấy làm phép đương nhiên là công lực sẽ tăng thêm bội phần. Do bùa chú đạo thuật là thuật pháp thần bí đã có lịch sử hàng nghìn năm, cho nên đạo đàn tuyệt đối không nên bố trí theo cách mới, dùng cổ là tốt nhất, pháp khí đạo cụ càng cổ càng tốt, cũng không nên đem đồ pháp khí cổ đánh rửa sạch sẽ sáng loáng. 
3. Bồi dưỡng linh lực: 
Thế nào gọi là linh lực ? Linh lực tức là sức mạnh siêu tự nhiên. Một người thuật sĩ nếu như có thể tu tập đến mức tập hợp linh khí của trời đất và linh khí của bản thân hòa vào làm một thì đã đạt đến mức siêu nhiên của một vị tiên vậy. Việc tu luyện cũng tùy theo nhân duyên, có duyên thì sẽ sớm ngộ, nếu không thì 10 năm tu tập cũng chưa có thể thành tựu. Vậy như thế nào gọi là bồi dưỡng linh lực ? Căn cứ theo Bí truyền Lục giáp đàn linh tu chân quyết (các bí quyết chân truyền tu đàn Lục giáp) thì lập đàn Lục giáp ắt phải trai giới tu luyện 49 ngày, mà trước chưa từng thấy linh quang, hoặc thần tướng thì nên tu thêm Bí truyền pháp thân tu chân chuyên khoa (chuyên khoa bí truyền tupháp thân) để chân linh có thể hiển lộ.
4. Bí quyết vẽ linh bùa:
  • Một: trước khi vẽ bùa cần ngủ đẫy giấc, tinh thần sảng khoái, đầu tiên tắm rửa toàn thân, bình tâm hòa khí, sau mới bắt đầu đốt hương niệm chú vẽ bùa. Phàm là nóng giận, tinh thần mệt mỏi, bệnh tật hoặc sau khi quan hệ nam nữ thì đều không thể vẽ bùa, hãy cẩn thận đấy.

  • Hai: thời gian vẽ bùa, tốt nhất là vào giờ Tí, thời gian này là lúc âm dương giao hòa, vạn vật cảm ứng, vô cùng linh nghiệm. Ngoài giờ Tí, thì vào ngày tốt các giờ Mão, Ngọ, Dậu, Hợi cũng có thể vẽ bùa. Vào ngày hình phá không thể vẽ bùa, dùng không linh nghiệm.

  • Ba: thời cổ đại vẽ bùa dùng mực Tĩnh yên tùng, thời Hán phương sĩ luyện đan thích dùng Chu sa vẽ bùa. Nay phàm là các sách giải thích chu sa, dùng Chu sa vẽ, sách giải thích mực, dùng mực Tĩnh yên vẽ, nếu như không giải thích thì Chu sa và mực đều có thể dùng được, đeo bùa dùng mực là tốt nhất, Chu sa dùng Lạp trạng chính thần sa là hợp.

  • Bốn: giấy để vẽ bùa dùng giấy vàng Công sơn hoặc giấy xanh Công sơn, các loại giấy khác không có thể dùng hóa để nhuốt, hãy cẩn thận, chớ có dùng sai. Nếu như đeo bùa vải thì dùng vải vàng thuần chất lụa là hợp.

  • Năm: phàm khi lập đàn lục giáp, đã tu luyện 49 ngày, vẽ bùa, làm phép đại khái cần dùng các vật bút, giấy, mực, nghiên, Chu sa, đặt ở dưới đàn Lục giáp. Trước khi vẽ bùa cần phải đốt hương châm đèn, tay lắc chuông niệm lục khẩu quyết:
 Quyết thứ 1: chú thần Thổ địa: Thử gian thổ địa, thần chi tối linh, thông thiên đạt địa, xuyên u nhập minh, vi ngã quan thiệu, bất đắc lưu đình, hữu công chi nhật danh thư thượng thanh 
Quyết thứ 2: chú Nhị thập bát tú: Giác Cang Đê Phòng Tâm Vĩ Cơ, Đẩu Ngưu Nữ Hư Nguy Thất Bích, Khuê Lâu Vị Mão Tất Chủy Sâm, Tỉnh Quỹ Liễu Tinh Trương Dực Chẩn 
Quyết thứ 3: chú Thất tinh bắc đẩu: Đẩu, Thực, Quyền, Hành, Tất, Phụ, Phiêu 
Quyết thứ 4: chú Thập thiên can: Giáp Ất Bính Đinh, Mậu Kỉ Canh Tân, Nhâm Qúy 
Quyết thứ 5: chú Ngũ hành: Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ 
Quyết thứ 6: chú Thập nhị cung thần: Tí Sửu Dần Mão, Thìn Tị Ngọ Mũi, Thân Dậu Tuất Hợi
Nếu như tế đàn Lục giáp, thì trước khi vẽ bùa cần đem, mực, bút, nghiên, nước sắc chú để dùng, các sắc chú như sau:  
Sắc chú cho giấy: Bắc đế sắc ngô chỉ, thư phù đả tà quỷ, cảm hữu bất phục giả, áp phó phong đô thành, cấp cấp như luật lệnh 
Sắc chú cho mực: Ngọc đế hữu sắc, thần mặc chá chá, hình như vân vụ, thượng liệt cửu tinh, thần mặc khinh ma, phích lịch củ phân, cấp cấp như luật lệnh 
Sắc chú cho bút: cư thu ngũ lôi thần tướng, điện chước quang hoa, nạp tắc nhất thân bảo mệnh, thượng tắc phược quỷ phục tà, nhất thiết tử hoạt diệt, đạo ngã trường sinh, cấp cấp như luật lệnh 
Sắc chú cho nghiên: Ngọc đế hữu sắc, thần nghiên tứ phương, kim mộc thủy hỏa thổ, lôi phong vũ điện, thần nghiên khinh ma, phích lịch điện quang mang, cấp cấp như luật lệnh 
 Sắc chú cho nước: thử thủy phi phàm thủy, bách phương nhâm quý thủy, nhất điểm tại nghiên trung, vân vũ tu du chí, bệnh giả thôn chi, bách quỷ tiêu trừ, tà quỷ thôn chi phấn toái, cấp cấp như tam kì đế quân như luật lệnh 
Sắc chú xong mài mực dùng. Thuật sĩ đứng trước đàn Lục giáp cần tiến sớ văn cầu đảo, sớ văn như sau:  
Vào giờ…ngày…tháng…năm, phụng đạo Mao Sơn kinh lục đệ tử…đạo sư, cẩn thành cầu xin các vị Hiên Viên lão tổ, Thái thượng lão quân, Mao Sơn tổ sư, Thuần Dương tiên sư, Trương Phủ thiên quân, Ngũ hiển đại đế, Pháp chủ thánh quân, Dao trì kim mẫu, Tam Sơn cửu hầu đến trước đàn Lục giáp sắc bùa…, ban cho thiện nam/tín nữ…cùng mệnh vào giờ…ngày…tháng…năm cùng ở bên thân, giáng bút có thần, đệ tử thành kính cầu xin, cúi đầu cẩn cáo.
Khi đọc sớ này không được lắc chuông, thuật sĩ có thể hai tay hợp lại đặt ở trước ngực, khi hô tên thần nào thì hai mắt nhìn bài vị của vị thần ấy, niệm xong chấp tay khấu đầu thì có thể ngồi trước đàn vẽ bùa.

  • Sáu: khi hạ bút vẽ bùa, nếu như trên bùa có VVV thì trước tiên:
Vẽ một V ở bên trái, khi vẽ niệm:    nhất bút thiên hạ động
Tiếp đó vẽ ở giữa một V, khi vẽ niệm:    nhị bút tổ sư tiễn, 
Cuối cùng vẽ bên phải một V, khi vẽ niệm: tam bút hung thần ác sát tẩu khứ thiên lý ngoại.  
Nếu như bùa mà không có VVV thì khi hạ bút vẽ trước tiên cần niệm: 
 Thiên viên địa phương, luật lệnh cửu chương, ngô kim hạ bút, vạn quỷ phục tàng, cấp cấp như luật lệnh. Đầu và đuôi bùa có .....
Niệm: tam điểm phù linh ứng, chữ ở phù đảm thì trùng lên nhau viết lên phù giá, phàm là bùa không có phù giá, không thể tự ý thêm phù giá, phủ đảm để tránh thần linh nổi giận.
  • Bảy: sau khi vẽ bùa xong, cái gọi là vẽ bùa xong là chỉ những thành phần quan trọng của toàn bộ bùa đã xong, một khi vẽ xong thì có thể kết hợp với sắc bùa kiếm quyết chỉ hoặc kim cương chỉ, khi sắc trước tiên kiếm quyết chỉ hoặc kim cương chỉ để trước mồm thở ra một hơi, dùng xong lại để trước miệng hít một hơi, sắc bùa Mao Sơn thường dùng chú ngữ như sau: 
Một: phụng Mao Sơn tổ sư, tứ ngã kiếm quyết / kim cương thiết bút chỉ, chỉ thiên thiên thanh, chỉ địa địa linh, điểm thần thần hiển thánh, điểm nhân nhân trường sinh, điểm phù phù linh ứng. 
Khi niệm “điểm thiên thiên thanh” thì chỉ kiếm chỉ / kim cương chỉ hướng lên trên, niệm “điểm địa địa linh” thì chỉ xuống dưới, “điểm thần thần hiển thánh” thì chỉ lên hướng thần vị, niệm “điểm nhân nhân trường sinh” thì chỉ người hoặc chỉ bụng, mồm của bản thân mình.  
Tiếp theo niệm: hai: Càn nguyên âm phú, huyền vận vô biên, tạo hóa phát dục, vạn vật tư yên, đông tây nam bắc, nhiệm ý an nhiên, vân hành vũ thí, biến hóa bất trắc. Ngô phụng Thái thượng lão quân sắc cấp cấp như luật lệnh. 
Khi niệm chú này kiếm quyết/kim cương chỉ chỉ vào bùa, dùng lực tiếp xúc đến bùa giấy với cả vật có đủ linh lực. Kiếm quyết chỉ hoặc kim cương chỉ không có thể chỉ loạn, tay chưa rửa sạch không có thể chỉ để tránh khỏi việc thần giận trời quở trách. Sau khi sắc bùa thì phải đóng thêm thất tinh linh ấn, hóa nhuốt, đóng một ấn hóa, thiếp, bội, thiếp, đều đóng ba ấn thượng, trung, hạ, đóng xong hóa một số kim ngân ở dưới đàn vào lò, tay cầm bùa ở trên lửa đưa qua đưa lại ba lần, lại đem ba nén hương ở trên đàn đưa qua đưa lại 3 lần thì đã hoàn thành.
********************Kinh nghiệm vẽ bùa*******************
Khi ngồi trước thần đàn vẽ bùa, phàm là người có đạo hạnh cao thì trên thân sẽ phát ra linh quang, đặc biệt là trên trán, bùa đó thì linh lực vô cùng hiệu nghiệm. Nhưng tu được đến mức như vậy thì nên ẩn dấu tránh lộ diện, chớ đến chỗ nào cũng rêu rao, tiết lộ thiên cơ, thì e rằng công lực sớm muộn cũng sẽ tận kiệt, hối cũng chẳng kịp.  
Khi vẽ phù lục của loại bùa khu tà phục quỷ tinh thần nên tập trung ở chỗ ác ma quyết đấu, trảm sát thanh trừ. Vẽ phù lục của các loại bùa tình yêu hòa hợp thì tinh thần ở chỗ tạo cho người cầu thuật sự vui vẻ. Vẽ bùa tài vận thì tập trung ở trên vàng bạc, tiền tài. Vẽ trì tà giải oan thì tinh thần tập trung ở vào trừ tà, giải oan, sức khỏe cho người cầu thuật