Núi Nga Mi nằm ở phía Tây Nam- Trung Quốc, thuộc tỉnh Tứ Xuyên. Dãy Nga Mi vốn có đỉnh núi đối nhau như đôi lông mày nên được đặt tên là Nga Mi. Núi chính có đỉnh Vạn Phật, cao 3099 mét so với mực nước biển. Dãy Nga Mi thẳng đứng cheo leo,khe hẹp lũng sâu, tùng xanh bách biếc , thác nước tung bay, xưa nay vẫn ca tụng:”Nga Mi thiên hạ tú”. Thế kỷ thứ hai, đời Đông Hán, bắt đầu xây dựng chùa chiền. Cả Đạo giáo và Phật giáo đều có ở đây. Sư sãi và đạo sĩ khi tham thiền, tĩnh tọa, niệm kinh lạy Phật xong lại múa thương, múa gậy, luyện tập đấm đá, dần dà hình thành nên võ thuật Nga Mi nổi tiếng thiên hạ. Võ thuật Nga Mi thâu tóm sở trường của Phật giáo lẫn Đạo giáo, vừa hấp thụ động công của Đạo gia lại vừa có cả cơ sở tu thiền của Phật gia, sáng tạo riêng ra một phương pháp luyện công đầy đủ cả động lẫn tĩnh. Phương pháp này cùng các lọai quyền thuật, khí giớ cùng kỹ thuật tán đả tổ hợp thành võ thuật phái Nga Mi.
Theo như ghi chép trong “Nga Mi quyền phổ” thời Thanh thì quyền thuật Nga Mi là :
“Nhất thụ khai ngũ hoa,
Ngũ hoa bát diệp phù,
Giao giao Nga Mi nguyệt,
Quang huy mãn giang hồ”.
“Nhất thụ khai ngũ hoa,
Ngũ hoa bát diệp phù,
Giao giao Nga Mi nguyệt,
Quang huy mãn giang hồ”.
“Ngũ mai” ở đây là chỉ 5 đại chi phái của Nga Mi :
1) Hoàng Lăng Phái, nguyên được truyền từ tỉnh Thiểm Tây vào.
2) Điểm dị phái, được mang tên từ Điểm Dị động thuộc Bồi Lăng,thịnh hành tại vùng phía đông Tứ Xuyên.
3) Thanh Thành phái: được mang tên từ thắng cảnh Thanh Thành, thịnh hành tại vùng phía đông Tứ Xuyên.
4) Thiết Phật phái (còn gọi là Vân Đỉnh phái), thịnh hành tại vùng phía bắc Tứ Xuyên.
5) Thanh Ngưu phái: lấy tên từ núi Thanh Ngưu, thuộc phía đông Tứ Xuyên.
“Bát diệp” là nói đến 8 loại quyền thuật của Nga Mi, hay còn gọi là “Nga Mi Bát Đại Môn”, đó là:
1) Tăng môn: theo truyền thuyết là được mang tên từ một nhà sư Thiếu Lâm, còn gọi là “Thâm môn”. Đặc điểm là: xảo, diệu, linh(hoạt), động.
2) Khưu môn: Do Nhạc Phi truyền, đặc điểm trang thấp, thủ pháp thường khoát thành đường tròn.
3) Triệu môn: Tương truyền do Tống thái tổ Triệu Khoang Âm truyền, mang phong cách và quyền pháp của Trường quyền Thiếu Lâm (cũng do Triệu Khoang Âm truyền), do chủ yếu luyện Hồng quyền nên còn được gọi là “Hồng môn”.
4) Đỗ môn: Theo truyền thuyết được lấy tên từ trận đồ “Đỗ môn” của Gia Cát Lượng, cho rằng quyền pháp truyền cho Đõ Quan Ấn -Tự Nhiên Môn, đặc điểm là phong tỏa cẩn mật, thiên về phòng thủ.
5) Hồng môn: Tương truyền được lấy tên từ niên hiệu Hồng Võ - Minh Thái Tổ. Chủ yếu luyện, Đại, Tiểu Hồng Quyền, chú trọng cương kình.
6) Hóa môn: Còn gọi là ‘Tàm bế môn”, bao gồm 36 tuyệt kỹ bế thủ như tằm nhả tơ, liên tục không ngừng, đòn đánh chủ yếu là khóa tay đối thủ, không cho đối thủ thi triển thủ pháp.
7) Tự môn: Còn gọi là “Trí môn”, do thu thức thường thành hình chữ “Chi” hoặc chữ “Nhất” nên được mang tên là Tự môn, đặc điểm là cao trang trường thủ.
8) Hội môn: Còn gọi là “Tuệ môn”, lấy Thần quyền làm đại biểu, chú trọng đến quan sư mạc tượng, niệm chú, bề ngoài trông rất thần bí.
Trừ thương pháp và quyền pháp Nga Mi trứ danh ra còn có Nga Mi Hỏa Long Quyền, Nga Mi kiềm quyền, Hồng khâu, Lục Trửu đến Ngũ giác quyền, Phả Tử quyền (phả tử là người đi khập khiễng), Áp hình quyền (quyền con vịt - tượng hình quyền) v.v…
Hệ quyền Nga Mi về bộ hình chủ yếu có hư bộ, trường sơn bộ (thác bộ), bộ pháp chủ yếu có xà hình bộ hay chi tự bộ, tiễn bộ (tiễn là cắt) tức hoàn khiêu bộ (nhảy đổi), thỏ tử bộ (bước thỏ) tức chân trước bước thống nhất, chân sau chồm lên một bước, chân trước lại lên trước một bước, tức là loại bộ pháp ba bước như trên liền nhau, thoa bộ (bước thoi đưa), lưỡng tính bộ (bước hai chân ngang nhau) v.v…
Thân pháp yêu cầu lên xuống như làn sóng, như rắn bò, dùng thôn, thổ, phù, trầm, đằng, thiểm, toản v.v… (tức nuốt, nhả, nổi, chìm, lăng, né, chọc v.v…) để biểu hiện đặc điểm “quyền rắn luyện nhu”.
Phép đánh thì có điểm, bàn, quan, đề (điểm, xoay, đóng, nâng) bốn loại. Đặc điểm là động tác nhỏ biến hóa lớn, lấy nhu khắc cương, mượn sức dùng sức. Khi công phòng thì lấy cánh tay lăn áp tới sau quyền, thuận thế trước công vào, mượn sức phản kích. Phép đánh trí mạng có phép điểm huyệt, phép bẻ xương…
Bát quái chưởng
Phép đánh thì có điểm, bàn, quan, đề (điểm, xoay, đóng, nâng) bốn loại. Đặc điểm là động tác nhỏ biến hóa lớn, lấy nhu khắc cương, mượn sức dùng sức. Khi công phòng thì lấy cánh tay lăn áp tới sau quyền, thuận thế trước công vào, mượn sức phản kích. Phép đánh trí mạng có phép điểm huyệt, phép bẻ xương…
Bát quái chưởng
Đổng Hải Xuyên-Người sáng lập ra Bát Quái ChưởngBát Quái Chưởng là một trong những loại quyền thuật sử dụng các chiêu thuật công, phòng và phương pháp dẫn đạo dung hợp với bộ pháp di chuyển theo đường tròn. Tên gọi cũ của Bát Quái Chưởng là “chuyển chưởng” (Chưởng xoay), ngoài ra Bát Quái Chưởng còn mang tên là “ Bát quái chuyển chưởng” (chưởng xoay bát quái), “Du thân bát quái chưởng” (Bát quái chưởng đưa mình), “Nhu thân Bát quái chưởng” (Bát quái chưởng mềm thân), “Âm dương Bát quái chưởng”(Bát quái chưởng âm dương), “Bát quái liên hoàn chưởng” (Chưởng liên hoàn bát quái). Trên thực tế, bộ pháp của Bát quái chưởng chú trọng đến ngang dọc khác nhau, nối liền tám phương vị trong Bát quái. Bát quái tán thủ chú trọng đến nguyên tắc “tùy cơ ứng biến”, gặp thời cơ thì đánh, hợp với Chu Dịch “cứng mềm mài nhau, bát quái vẫy động”, nghĩa là luôn vận động, biến hóa không ngừng, do đó mới gọi là Bát Quái Chưởng.
Về nguồn gốc của Bát Quái Chưởng thì cũng có nhiều truyền thuyết khác nhau. Có thuyết cho rằng do đạo nhân Bích Vân, Thanh Vân ở núi Nga Mi (Tứ Xuyên) truyền dạy. Cũng có thuyết cho rằng tiền thân của Bát Quái Chưởng là “Âm dương bát quái chưởng” từng được lưu truyền tại vùng Giang Nam. Có người lại suy đoán từ “Lam di ngoại sử-Tỉnh biên ký” có ghi : “Gia Ngưỡng làm vua từ 1796-1821, có người ở Tế Ninh tỉnh Sơn Đông là Vương Tương dạy Mã Khắc Thiện quyền pháp” mà quyền đó là tiền thân của Bát Quái Chưởng. Căn cứ theo các kết quả khảo chứng vào cuối thời nhà Thanh thì kết luận một cách chính xác là: Bát Quái Chưởng do Đổng Hải Xuyên, người thành Châu Gia - Văn Anh, tỉnh Hà Bắc (TQ) sáng lập ra. Hệ quyền của Đổng Hải Xuyên cực giống thuật đạo dẫn chạy theo đường tròn của Đạo giáo kết hợp với phương pháp công phòng trong võ thuật, đồng thời dùng Dịch lý để làm lý luận cơ bản, đó là “lấy động làm gốc, lấy biến làm phép”.
Năm 1866, sau khi Đổng Hải Xuyên lập ra Bát Quái Chưởng, ông liên tục truyền dạy tại Bắc Kinh, Thiên Tân, Hà Bắc. Từ đó đến nay qua bao thế hệ, Bát Quái Chưởng không ngừng hoàn thiện và phát triển một cách nhanh chóng về lý luận kỹ thuật, phương pháp…
Đặc điểm vận động của Bát Quái Chưởng là thân nhanh bước linh, tùy bước tùy biến. Khi giao đấu thì nhô, cúi, vặn , xoay mau lẹ đa biến. Quyền phổ ghi là: “Hình như rồng lượn, nhìn như vượn dữ, ngồi như hổ phục, chuyển như ưng liệng”. Bát Quái Chưởng lấy trạm trang và bộ bước làm cơ bản công, lấy bước xoay chạy vòng tròn làm hình thức vận động cơ bản. Đường di chuyển của vết chân bước, xoay được chia ra theo hình cá Âm Dương, theo các phương vị Bát quái. Về thân pháp, yêu cầu vươn thân, cổ thẳng, đứng hông hạ mông, lỏng vai xuôi khuỷu, háng co, nâng bụng dưới…thân pháp coi trọng vặn, xoay , chuyển, lật tròn vòng, không ngắc ngứ, Bộ pháp đòi hỏi khi lên xuống phải vững vàng, khép mở rõ ràng, thực hư rành rọt. Khi bước vòng tròn, chân trong tiến thẳng, chân ngoài khép vào trong, hai gối hướng vào nhau, không mở hạ bộ. Về mặt thủ pháp, chủ yếu có đẩy, nâng, kéo, dẫn, dời, chặn, cắt, khép, bắt, tóm, móc , đánh, …yêu cầu là có thể tiến thoái, có thể hóa giải, kết hợp với hư thực mà biến hóa khôn cùng. Mục đích là dĩ tĩnh chế động, né thẳng đánh chéo khi giao đấu. Mỗi chưởng khi đánh ra đều phải dùng hông eo làm trục để xoay, toàn thân là một thể thống nhất, nội ngoại tương hợp, đó là ngoài thì chú trọng đến thủ, nhãn, thân và bộ pháp, trong thì luyện tâm, ý, khí, thần và lực.
Thường thì khi luyện Bát Quái Chưởng thì chia làm ba bước kung fu, đó là: định giá tử (luyện tập giá thức, tư thế), hoạt giá tử (vận dụng, kết hợp thủ pháp, bộ pháp, các tư thế lại với nhau) và biến hóa (tử).
Định giá tử là cơ bản, yêu cầu mỗi chiêu môi thức phải thật qui củ, quen chậm chứ không quen nhanh, cốt sao tư thế chính xác, bộ pháp kiên cố, bước đi vững vàng, thiết thực, đạt được chín yêu cầu ban đầu là:
- Tạ (xệ, xệ hông)
- Khấu (khép, khép ngực)
- Đế (nâng lên, nâng huyệt Vỹ lư, nâng trong Cốc đạo. Vỹ lư là huyệt nằm dưới thắt lưng, trên xương cùng, nơi tập trung nội lực. Cốc đạo là đường tiêu hóa kể từ hậu môn lên).
- Đỉnh (đẩy lên, hướng đầu lên)
- Khỏa (quấn tròn, cuộn tay)
- Tùng (thả lỏng, buông lỏng)
- Thùy (xuôi, xuôi khuỷu tay)
- Xúc (co, co khớp hang, bả vai)
- Khởi toản lạc phan, tuyệt đối không ưỡn ngực, phưỡn bụng
Hoạt giá tử chủ yếu luyện tập các động tác, phối hợp với các yếu lĩnh cơ bản kể trên trong khi di chuyển bộ pháp, biến hóa phương vị, cốt trở nên thành thạo, thuần thục.Các động tác khi di chuyển phải đạt yêu cầu nội ngoại thống nhất, ý dẫn thân tùy, biến đổi tự nhiên, sao để nhẹ như lông ngỗng, biến như chớp, vững như bàn thạch.
Nội dung cơ bản của Bát Quái Chưởng là Bát mẫu chưởng (tám chưởng mẹ), hay còn gọi là Lão bát chưởng, tuy vậy tùy từng nơi mà nội dung truyền dạy có sự khác biệt nhất định.Đó là lấy tám hình đại diện là Sư (sư tử), Lộc (hươu), Xà (rắn), Điêu (diều hâu), Long (rồng), Phụng (phượng), Hầu (khỉ), Hùng (gấu).Đồng thời dùng cả Song chàng chưởng (chưởng đâm bằng hai tay), Dao thân chưởng (chưởng lắc thân), Xuyên chưởng (chưởng xuyên), Khiêu chưởng (chưởng khều)….làm nội dung cơ bản của tám chưởng. Tuy vậy mỗi chưởng kể trên lại biến hóa ra nhiều chưởng pháp, theo kiểu cứ một chưởng lại sinh ra tám chưởng, tổng cộng 8x8 thành 64 chưởng.
Bát Quái Chưởng có đơn luyện , đối luyện và tán đả đấu lôi đài.Căn cứ theo quyền phổ cũ ghi lại thì hệ quyền của Bát Quái Chưởng thường có 18 đường La Hán thủ, 72 ám cước (đòn đá ngầm), 72 triệt thoái (chặt chân). Hệ thống binh khí của Bát Quái Chưởng gồm có : Tý ngọ uyên ương việt (búa uyên ương Tý Ngọ), Kê trảo âm dương nhuệ (vuốt chân gà âm dương), Phong hỏa luân (bánh xe gió lửa), Phán quan bút…là các loại song binh khí, ngắn và nhỏ, ngoài ra còn có các khí giới dài và nặng hơn là bát quái đao, bát quái thương, bát quái kiếm.
Hiện nay Bát Quái Chưởng chủ yếu được lưu truyền rộng rãi tại các tỉnh thành thuộc miền bắc Trung Quốc với hai hệ phái chính là Bát Quái Chưởng họ Trình (Trình thức Bát Quái Chưởng) và Bát Quái Chưởng họ Lương (Lương thức Bát Quái Chưởng).
Về nguồn gốc của Bát Quái Chưởng thì cũng có nhiều truyền thuyết khác nhau. Có thuyết cho rằng do đạo nhân Bích Vân, Thanh Vân ở núi Nga Mi (Tứ Xuyên) truyền dạy. Cũng có thuyết cho rằng tiền thân của Bát Quái Chưởng là “Âm dương bát quái chưởng” từng được lưu truyền tại vùng Giang Nam. Có người lại suy đoán từ “Lam di ngoại sử-Tỉnh biên ký” có ghi : “Gia Ngưỡng làm vua từ 1796-1821, có người ở Tế Ninh tỉnh Sơn Đông là Vương Tương dạy Mã Khắc Thiện quyền pháp” mà quyền đó là tiền thân của Bát Quái Chưởng. Căn cứ theo các kết quả khảo chứng vào cuối thời nhà Thanh thì kết luận một cách chính xác là: Bát Quái Chưởng do Đổng Hải Xuyên, người thành Châu Gia - Văn Anh, tỉnh Hà Bắc (TQ) sáng lập ra. Hệ quyền của Đổng Hải Xuyên cực giống thuật đạo dẫn chạy theo đường tròn của Đạo giáo kết hợp với phương pháp công phòng trong võ thuật, đồng thời dùng Dịch lý để làm lý luận cơ bản, đó là “lấy động làm gốc, lấy biến làm phép”.
Năm 1866, sau khi Đổng Hải Xuyên lập ra Bát Quái Chưởng, ông liên tục truyền dạy tại Bắc Kinh, Thiên Tân, Hà Bắc. Từ đó đến nay qua bao thế hệ, Bát Quái Chưởng không ngừng hoàn thiện và phát triển một cách nhanh chóng về lý luận kỹ thuật, phương pháp…
Đặc điểm vận động của Bát Quái Chưởng là thân nhanh bước linh, tùy bước tùy biến. Khi giao đấu thì nhô, cúi, vặn , xoay mau lẹ đa biến. Quyền phổ ghi là: “Hình như rồng lượn, nhìn như vượn dữ, ngồi như hổ phục, chuyển như ưng liệng”. Bát Quái Chưởng lấy trạm trang và bộ bước làm cơ bản công, lấy bước xoay chạy vòng tròn làm hình thức vận động cơ bản. Đường di chuyển của vết chân bước, xoay được chia ra theo hình cá Âm Dương, theo các phương vị Bát quái. Về thân pháp, yêu cầu vươn thân, cổ thẳng, đứng hông hạ mông, lỏng vai xuôi khuỷu, háng co, nâng bụng dưới…thân pháp coi trọng vặn, xoay , chuyển, lật tròn vòng, không ngắc ngứ, Bộ pháp đòi hỏi khi lên xuống phải vững vàng, khép mở rõ ràng, thực hư rành rọt. Khi bước vòng tròn, chân trong tiến thẳng, chân ngoài khép vào trong, hai gối hướng vào nhau, không mở hạ bộ. Về mặt thủ pháp, chủ yếu có đẩy, nâng, kéo, dẫn, dời, chặn, cắt, khép, bắt, tóm, móc , đánh, …yêu cầu là có thể tiến thoái, có thể hóa giải, kết hợp với hư thực mà biến hóa khôn cùng. Mục đích là dĩ tĩnh chế động, né thẳng đánh chéo khi giao đấu. Mỗi chưởng khi đánh ra đều phải dùng hông eo làm trục để xoay, toàn thân là một thể thống nhất, nội ngoại tương hợp, đó là ngoài thì chú trọng đến thủ, nhãn, thân và bộ pháp, trong thì luyện tâm, ý, khí, thần và lực.
Thường thì khi luyện Bát Quái Chưởng thì chia làm ba bước kung fu, đó là: định giá tử (luyện tập giá thức, tư thế), hoạt giá tử (vận dụng, kết hợp thủ pháp, bộ pháp, các tư thế lại với nhau) và biến hóa (tử).
Định giá tử là cơ bản, yêu cầu mỗi chiêu môi thức phải thật qui củ, quen chậm chứ không quen nhanh, cốt sao tư thế chính xác, bộ pháp kiên cố, bước đi vững vàng, thiết thực, đạt được chín yêu cầu ban đầu là:
- Tạ (xệ, xệ hông)
- Khấu (khép, khép ngực)
- Đế (nâng lên, nâng huyệt Vỹ lư, nâng trong Cốc đạo. Vỹ lư là huyệt nằm dưới thắt lưng, trên xương cùng, nơi tập trung nội lực. Cốc đạo là đường tiêu hóa kể từ hậu môn lên).
- Đỉnh (đẩy lên, hướng đầu lên)
- Khỏa (quấn tròn, cuộn tay)
- Tùng (thả lỏng, buông lỏng)
- Thùy (xuôi, xuôi khuỷu tay)
- Xúc (co, co khớp hang, bả vai)
- Khởi toản lạc phan, tuyệt đối không ưỡn ngực, phưỡn bụng
Hoạt giá tử chủ yếu luyện tập các động tác, phối hợp với các yếu lĩnh cơ bản kể trên trong khi di chuyển bộ pháp, biến hóa phương vị, cốt trở nên thành thạo, thuần thục.Các động tác khi di chuyển phải đạt yêu cầu nội ngoại thống nhất, ý dẫn thân tùy, biến đổi tự nhiên, sao để nhẹ như lông ngỗng, biến như chớp, vững như bàn thạch.
Nội dung cơ bản của Bát Quái Chưởng là Bát mẫu chưởng (tám chưởng mẹ), hay còn gọi là Lão bát chưởng, tuy vậy tùy từng nơi mà nội dung truyền dạy có sự khác biệt nhất định.Đó là lấy tám hình đại diện là Sư (sư tử), Lộc (hươu), Xà (rắn), Điêu (diều hâu), Long (rồng), Phụng (phượng), Hầu (khỉ), Hùng (gấu).Đồng thời dùng cả Song chàng chưởng (chưởng đâm bằng hai tay), Dao thân chưởng (chưởng lắc thân), Xuyên chưởng (chưởng xuyên), Khiêu chưởng (chưởng khều)….làm nội dung cơ bản của tám chưởng. Tuy vậy mỗi chưởng kể trên lại biến hóa ra nhiều chưởng pháp, theo kiểu cứ một chưởng lại sinh ra tám chưởng, tổng cộng 8x8 thành 64 chưởng.
Bát Quái Chưởng có đơn luyện , đối luyện và tán đả đấu lôi đài.Căn cứ theo quyền phổ cũ ghi lại thì hệ quyền của Bát Quái Chưởng thường có 18 đường La Hán thủ, 72 ám cước (đòn đá ngầm), 72 triệt thoái (chặt chân). Hệ thống binh khí của Bát Quái Chưởng gồm có : Tý ngọ uyên ương việt (búa uyên ương Tý Ngọ), Kê trảo âm dương nhuệ (vuốt chân gà âm dương), Phong hỏa luân (bánh xe gió lửa), Phán quan bút…là các loại song binh khí, ngắn và nhỏ, ngoài ra còn có các khí giới dài và nặng hơn là bát quái đao, bát quái thương, bát quái kiếm.
Hiện nay Bát Quái Chưởng chủ yếu được lưu truyền rộng rãi tại các tỉnh thành thuộc miền bắc Trung Quốc với hai hệ phái chính là Bát Quái Chưởng họ Trình (Trình thức Bát Quái Chưởng) và Bát Quái Chưởng họ Lương (Lương thức Bát Quái Chưởng).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét